Luật Cư trú có hiệu lực từ ngày 1/7/2021. Còn theo Thông tư 55 của Bộ Công an hướng dẫn khi công dân thực hiện các thủ tục đăng ký cư trú dẫn đến thay đổi thông tin trong sổ hộ khẩu, sổ tạm trú thì cơ quan đăng ký cư trú có trách nhiệm thu hồi sổ đã cấp.
Các thủ tục đăng ký cư trú dẫn đến thay đổi thông tin trong sổ hộ khẩu, sổ tạm trú và bị thu hồi sổ bao gồm: đăng ký thường trú; điều chỉnh thông tin trong Cơ sở dữ liệu về cư trú; tách hộ; xóa đăng ký thường trú; đăng ký tạm trú; gia hạn tạm trú; xóa đăng ký tạm trú).
Những sổ khác, không thuộc trường hợp bị thu hồi vẫn sử dụng bình thường. Đến ngày 1/1/2023, sổ hộ khẩu, sổ tạm trú mới chính thức bị xóa bỏ hoàn toàn.
Cũng từ ngày 1/7/2021 sẽ không cấp mới sổ hộ khẩu, sổ tạm trú. Mọi thông tin về cư trú của người dân sẽ được cập nhật và lưu tại Cơ sở dữ liệu về cư trú.
Kể từ ngày 1/7/2021, người dân cũng cần lưu ý không thuê nhà, mua nhà ở các địa điểm này, vì không thể làm được thủ tục đăng ký tạm trú, thường trú.
Ngoài ra, Luật cũng quy định thêm nhiều trường hợp bị xóa đăng ký thường trú, điển hình nhất là 2 trường hợp: Vắng mặt liên tục tại nơi thường trú từ 12 tháng trở lên, mà không đăng ký tạm trú tại chỗ ở khác hoặc không khai báo tạm vắng, trừ trường hợp xuất cảnh ra nước ngoài; Bán nhà mà không được chủ nhà mới đồng ý cho giữ lại đăng ký thường trú.
Để phục vụ quản lý dân cư theo hình thức mới, hai dự án Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và Sản xuất, cấp, quản lý căn cước công dân đã được Bộ Công an thực hiện và bắt đầu vận hành.
Đây là 2 dự án công nghệ thông tin lớn nhất từ trước tới nay ở Việt Nam, triển khai từ cơ quan Trung ương đến 63 tỉnh, thành phố; hơn 700 quận, huyện, thị xã, thành phố và gần 11.000 xã, phường, thị trấn trong toàn quốc.
Một thay đổi quan trọng trong Luật Cư trú 2020 là điều kiện đăng ký thường trú từ nay sẽ giống nhau tại tất cả tỉnh, thành.
Cụ thể, công dân có chỗ ở hợp pháp thuộc quyền sở hữu của mình thì được đăng ký thường trú tại chỗ ở hợp pháp đó.
Trước đó, Luật Cư trú 2006 quy định riêng về điều kiện đăng ký thường trú tại các tỉnh, thành phố trực thuộc TƯ như TP.HCM và tại nội thành Hà Nội.
Bên cạnh đó, Thông tư 59 hướng dẫn thực hiện Luật căn cước công dân (CCCD) và Thông tư 60 quy định trình tự cấp, đổi, cấp lại thẻ CCCD có hiệu lực từ 1/7 cho phép người dân có thể làm CCCD gắn chip tại nơi tạm trú trên phạm vi cả nước.
Ảnh minh họa thẻ CCCD gắn chip.
Người dân trực tiếp đến công an cấp huyện nơi thường trú, tạm trú để đề nghị cấp, đổi, cấp lại thẻ CCCD hoặc thông qua Cổng dịch vụ công quốc gia, Cổng dịch vụ công Bộ Công an để đăng ký thời gian, địa điểm làm thủ tục đề nghị cấp, đổi, cấp lại thẻ CCCD.
Từ 1/7, khi làm CCCD gắn chip, công an sẽ thu hồi chứng minh nhân dân (CMND) cũ (CMND 9 số, CMND 12 số, thẻ CCCD).
Theo quy định, mã QR tích hợp trên thẻ CCCD gắn chip sẽ chứa thông tin số CMND cũ của người dân nên người dân không cần phải xuất trình giấy xác nhận số CMND cũ khi thực hiện các giao dịch hành chính.
Riêng các trường hợp mã QR trên thẻ CCCD gắn chip không có thông tin về số CMND cũ thì cơ quan công an phải cấp xác nhận số CMND cũ khi người dân có yêu cầu.
Áp dụng một số chính sách mới về bảo hiểm y tế
Nhiều văn bản có hiệu lực từ ngày 1/7 cũng có một số quy định liên quan đến bảo hiểm y tế. Cụ thể như:
Luật Cư trú 2020 thay đổi khái niệm "hộ gia đình tham gia BHYT". Theo đó, hộ gia đình tham gia BHYT là những người cùng đăng ký thường trú hoặc cùng đăng ký tạm trú tại một chỗ ở hợp pháp theo quy định của pháp luật về cư trú (trước đây là toàn bộ những người có tên trong Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú).
Nghị định 20 của Chính phủ bổ sung một số trường hợp được cấp thẻ BHYT miễn phí, như: Người đơn thân nghèo đang nuôi con dưới 16 tuổi hoặc con từ 16 đến 22 tuổi nhưng đang ăn học; Người nhiễm HIV/AIDS thuộc diện hộ nghèo không có nguồn thu nhập ổn định hàng tháng…
Thông tư 04 của Bộ Y tế quy định việc thanh toán chi phí khám, chữa bệnh BHYT theo định suất. - Pháp lệnh ưu đãi người có công năm 2020 quy định vợ hoặc chồng liệt sĩ đã tái giá nhưng vẫn nuôi con liệt sĩ hoặc chăm sóc cha, mẹ đẻ của liệt sĩ cũng được hỗ trợ về BHYT (trong khi trước đây không được...
Tăng mức trợ cấp hàng tháng cho bà mẹ Việt Nam anh hùng
Theo Pháp lệnh 02/2020/UBTVQH14 về ưu đãi về người có công, có hiệu lực từ ngày 1/7/2021, thương binh, bệnh binh và người hưởng chính sách như thương binh, bệnh binh được Nhà nước hỗ trợ cơ sở vật chất ban đầu, bao gồm nhà xưởng, trường, lớp, trang thiết bị, được vay vốn ưu đãi để sản xuất, kinh doanh, miễn hoặc giảm thuế đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Đây là một chế độ hoàn toàn mới.
Pháp lệnh cũng quy định bổ sung mức trợ cấp hàng tháng cho Bà mẹ Việt Nam anh hùng lên mức 4.872.000 đồng/tháng.
Riêng với vợ hoặc chồng liệt sĩ đã tái giá nhưng vẫn nuôi con liệt sĩ đến tuổi trưởng thành hoặc chăm sóc cha, mẹ đẻ của liệt sĩ khi còn sống sẽ được hưởng trợ cấp tuất hàng tháng và được hỗ trợ về bảo hiểm y tế.
Tăng trợ cấp cho nhiều đối tượng
Theo Nghị định 20 của Chính phủ, nhiều khoản trợ cấp cho các đối tượng hưởng bảo trợ xã hội được điều chỉnh tăng vào thời điểm 1-7-2021. Cụ thể gồm:
Trẻ mồ côi dưới 4 tuổi; trẻ nhiễm HIV thuộc hộ nghèo được hưởng trợ cấp 900.000 đồng/tháng, thay cho mức 675.000 đồng/tháng.
Người từ đủ 60 đến đủ 80 tuổi thuộc hộ nghèo, không có người phụng dưỡng được hưởng trợ cấp 540.000 đồng/tháng, thay cho mức 405.000 đồng/tháng.
Người khuyết tật đặc biệt nặng được hưởng trợ cấp 720.000 đồng/tháng, thay cho mức 540.000 đồng/tháng; người khuyết tật nặng được hưởng trợ cấp 540.000 đồng/tháng, thay cho mức 405.000 đồng/tháng…
Trợ cấp mai táng người chết, mất tích do thiên tai, hỏa hoạn; tai nạn giao thông, tai nạn lao động đặc biệt nghiêm trọng hoặc các lý do bất khả kháng khác tối thiểu là 18 triệu đồng (trước đây chỉ là 5,4 triệu đồng), với trường hợp gia đình tổ chức mai táng…
Hỗ trợ làm nhà ở, sửa chữa nhà ở do thiên tai, hỏa hoạn hoặc lý do bất khả kháng khác cho hộ dân phải di dời khẩn cấp tối thiểu là 30 triệu đồng/hộ, trước đây tối đa là 20 triệu đồng/hộ…